nấu món ngon
Thông tin doanh nghiệp
NEWS  |  TAGS

399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM

  • Chia sẻ
  • Lịch sử hình thành và phát triển của ngành ngân hàng thế giới

Lịch sử hình thành và phát triển của ngành ngân hàng thế giới

Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cung cấp các khoản vay. Những ngân hàng đầu tiên được biết tới trong lịch sử nhân loại là các đền thờ cổ đại. Những dịch vụ ngân hàng đầu tiên không dành cho đông đảo người dân bình thường. Các hoàng tộc, vương triều và một số ít nhà buôn giàu mới là đối tượng phục vụ của ngân hàng nguyên thủy.

Công ty cổ phần dược phẩm An Thiên Nơi cất trữ an toàn: thế kỷ 18 trước công nguyên

Công ty dược phẩm An Thiên Vào khoảng ba nghìn năm trước Công nguyên. Hình thức ngân hàng sơ khai được nhiều nhà sử học cho rằng đã hình thành trước khi con người phát minh ra tiền. Ban đầu, tài sản gửi tại "ngân hàng'' là các loại ngũ cốc, sau đó là gia cầm, nông sản, rồi đến kim loại quý như vàng. Đền thờ là nơi an toàn để cất trữ tài sản. Đó là các công trình được xây dựng kiên cố, thường xuyên có người tới hành lễ. Và xét về tâm linh thì ngay những tên trộm táo tợn nhất cũng có ý tránh chốn linh thiêng này.

Dược phẩm An Thiên Tại Ai Cập và Mesopotamia, vàng được gửi vào các đền thờ. Nhưng những tài sản quý giá này lại ngủ yên trong đó, trong khi, ở bên ngoài xã hội, các nhóm thương nhân và hoàng tộc lại rất cần sử dụng chúng. Các nhà khảo cổ học tìm được những tàng tích cho thấy tới đầu thế kỷ 18 trước công nguyên, tại Babylon, dưới thời trị vì của Hammurabi, thầy tu trông giữ đền thờ bắt đầu cho các nhà buôn mượn tài sản cất trữ trong đền. Khái niệm ngân hàng ra đời.

Hy Lạp và La Mã: thế kỷ thứ 4 trước công nguyên

Người Hy Lạp cổ đại nắm giữ những bằng chứng xa xưa nhất về hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng của người Hy Lạp vận hành đa dạng và phức tạp hơn bất kỳ xã hội nào trước đó. Các đền thờ Hy Lạp cũng như các cá nhân và tổ chức hành chính tại các thành đô đã biết tới những giao dịch tài chính như cho vay, gửi tài sản, trao đổi tiền tệ, và định giá tiền đúc thông qua xác định khối lượng và mức độ thuần khiết của kim loại. Thậm chí, người Hy Lạp đã sử dụng các giao dịch tín dụng ghi sổ. Tại các hải cảng, nơi tập trung nhiều hoạt động giao thương, người cho mượn tiền viết giấy tín dụng cho người cần sử dụng tiền. Người cầm giấy này có thể "đổi'' lại thành tiền khi đến thành phố khác. Nhờ vậy mà người ta tránh được việc phải mang theo một lượng tiền lớn trong các chuyến buôn bán giữa các thành bang.

Pythius nổi tiếng là người lập ra và điều hành ngân hàng thương nhân (merchant bank) khắp vùng Tiểu Á đầu thế kỷ thứ 5 trước công nguyên. Nhân vật này được các nhà sử coi là nhà ngân hàng tư nhân đầu tiên. Một điểm đáng chú ý là tại các thành bang Hy Lạp, rất đông chủ ngân hàng là người lai hoặc người nước ngoài. Vào khoảng năm 371 trước công nguyên, Pasion, một nô lệ, đã trở thành nhà ngân hàng Hy Lạp giàu có và nổi tiếng nhất, đã được tự do và được công nhận tư cách công dân của Athena. Dường như người Hy Lạp, với trình độ phát triển khoa học cao, đã xem nhẹ lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Điều này giúp lý giải việc Hy Lạp đạt tới nền văn minh đỉnh cao từ rất sớm nhưng không có đóng góp hiểu biết đáng kể trong lĩnh vực kinh tế đương đại.

Hoạt động tín dụng ngân hàng phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ thứ 4 trước công nguyên ở vùng Địa Trung Hải. Tại Ai Cập, từ rất sớm, ngũ cốc đã được sử dụng như một loại tiền tệ bên cạnh kim loại quý (vàng và bạc). Các kho chứa ngũ cốc của triều đình thực hiện chức năng của ngân hàng. Khi đế chế Hy Lạp chinh phục Ai Cập, thời kỳ trị vì của hoàng gia Ptolemies (330-323 B.C.), những kho chứa nằm rải rác được tổ chức lại thành một hệ thống ngân hàng ngũ cốc, và được quản lý tập trung tại Alexandria- nơi ghi chép và lưu trữ tài khoản của các tất cả các ngân hàng ngũ cốc. Mạng lưới ngân hàng này hoạt động như hệ thống tín dụng thương mại, trong đó, việc thanh toán được thực hiện bằng ghi sổ từ tài khoản này sang tài khoản khác mà không cần chuyển tiền trên thực tế. Đây chính là bản chất và hình thức đầu rõ ràng nhất của các nghiệp vụ bù trừ hay thanh toán điện tử của các ngân hàng hiện đại.

Cuối thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, đảo Delos ở vùng đất Aegean cằn cỗi, trở thành trung tâm ngân hàng quan trọng của vùng Địa Trung Hải. Nơi đây cũng nổi tiếng với hải cảng sầm uất và đền thờ thần Apollo tráng lệ. Cũng giống như tại Ai Cập, giao dịch bằng tiền được thay thế bởi các hóa đơn tín dụng và việc thanh toán được thực hiện dựa trên những chỉ dẫn đơn giản với các tài khoản giữ riêng cho mỗi khách hàng. Sau khi người La Mã chinh phạt các đối thủ cạnh tranh là Carthage và Corinth, Delos càng trở nên quan trọng. Hệ thống ngân hàng của Delos gần như được các ngân hàng ở Rome sao chép lại.

Thành Rome cổ đại đã hoàn thiện các qui tắc và thủ tục hành chính của ngân hàng, cũng như các tổ chức và giao dịch tài chính. Lãi suất tiền vay và lãi tiền gửi được sử dụng rộng rãi với kỹ thuật tính toán phát triển và trong môi trường cạnh tranh. Trong thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, các khoản nợ được coi là đã chính thức thanh toán sau khi số tiền tương ứng đã chuyển tới ngân hàng. Nhà nước La Mã bổ nhiệm công chứng viên ghi nhận các giao dịch ngân hàng. Tuy vậy, sự phát triển của các ngân hàng La Mã gặp phải cản trở lớn từ thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch của người La Mã. Trong thời gian trị vì của Gallienus (260-268 sau Công nguyên), hệ thống ngân hàng La Mã từng bị gián đoạn sau khi các ngân hàng từ chối tiền bằng đồng mà vị Hoàng đế cho đúc ra.

Khi đế chế La Mã suy vong, các hoạt động thương mại giảm đáng kể nên các ngân hàng cũng không còn cần thiết. Thêm vào đó, giáo lý Cơ đốc cổ ngăn cấm thực hiện các giao dịch ngân hàng và coi việc tính lãi (cả với tiền gửi và tiền cho vay) là không có đạo đức. Sau khi La Mã sụp đổ, hoạt động ngân hàng bị cấm tại tây Âu và chỉ được phục hồi trở lại vào thời điểm các cuộc thập tự chinh xuất hiện.

Tôn giáo và ngân hàng: thế kỷ 12 và 13

Phần lớn các tôn giáo có nguồn gốc tại vùng Cận Đông không cản trở hành vi cho vay nặng lãi. Các xã hội này tin rằng những thực thể vô tri giác có đời sống giống như cây cỏ và động vật, và do đó, cũng có khả năng tự tái tạo. Tại các vùng châu thổ lưỡng hà (Mesopotamia), vùng đất khởi thủy của đạo Do Thái Hitties, vùng Canaan và Ai Cập, việc tính lãi vay được coi là hợp pháp và triều đình thường đặt ra một mức lãi suất cố định. Chỉ có một sự khác biệt trong đạo lý của người Do Thái. Trong phần cuối của kinh Hebrew, người Do Thái không được tính lãi trong các khoản vay với người Do Thái. Lãi suất chỉ được áp dụng trong giao dịch với những kẻ vô thần hoặc không thuộc Do Thái giáo.

Người theo đạo Cơ đốc không được phép cho vay nặng lãi. Và đó là cơ hội cho các nhà ngân hàng thuộc tôn giáo khác. Khi cuộc Thập tự chinh bắt đầu đầu, các vương triều châu Âu thịnh vượng cần các hoạt động tài chính. Người Do Thái, xuất hiện ở hầu khắp các lĩnh vực và nghiệp nghiệp, đáp ứng nhu cầu này. Nhưng sự thành công của họ, sự hiện hiện đông đảo những người cùng tôn giáo Do Thái mang lại nhiều nguy hiểm cho chính họ.

Một nhóm khác cũng nổi lên trong thời kỳ này là các Hiệp sĩ thánh chiến (Knights Templar), những người sau vài năm đã trở thành các nhà ngân hàng hùng mạnh ở khắp châu Âu và Trung Đông. Cũng giống như người Do Thái, các Hiệp sĩ có những nghi lễ tôn giáo riêng và dễ dàng trở thành nạn nhân của lời đồn tai tiếng, ngờ vực và ruồng bố.

Việc kinh doanh ngân hàng mang lại nhiều lợi nhuận dần được chuyển sang tay `những người anh em' có nguồn gốc Cơ đốc giáo, được biết tới đầu tiên là những người Lombards. Lombard, tiếng Latinh viết là Langobardi, còn được gọi biết tới với tên Langobards hay Longobards, là nhóm người có nguồn gốc chủng tộc German, đến từ phía bắc châu Âu và định cư tại vùng lưu vực sông Danube. Tới năm 568, dưới sự chỉ huy của vua Alboin tiến vào nước Italia và lập nên Vương triều riêng, tồn tại tới năm 774. Hậu duệ của người Lombards, các thương nhân tại Genoa, Milan, Venice và Florence là những người đầu tiên lập nên hệ thống ngân hàng hiện đại và đưa và thực hành các nghiệp vụ quan trọng.

Ngân hàng cho các Hoàng đế châu Âu: thế kỷ 13 và 14

Trong suốt thế kỷ 13, các nhà ngân hàng ở bắc Italy, được biết tới tên gọi chung ''những người Lombards'', dần thay thế vai trò của người Do Thái trong hoạt động truyền thống: cung cấp tiền bạc cho những người giàu có và quyền lực, các hoàng gia châu Âu. Kỹ năng kinh doanh của ngân hàng được phát triển với phát kiến về nghiệp vụ ghi sổ kép và cách thức bù trừ nghĩa vụ tín dụng của khách hàng trên ghi chép sổ sách giữa các ngân hàng trong hệ thống, vốn được các ngân hàng ở Genoa áp dụng từ thế kỷ 12. Cách thức kế toán sáng tạo này giúp họp tránh được ``tội lỗi'' cho vay nặng lãi được qui định trong giáo lý Cơ đốc. Lợi nhuận của khoản vay được ghi trong các tài khoản dưới dạng quà tặng tự nguyện của người vay hoặc phần thưởng cho những rủi ro mà nhà ngân hàng đã trải qua. Hẳn nhiên, những món quà và phần thưởng của các hoàng tộc đứng đầu châu Âu không bao giờ có giá trị nhỏ.

Các ngân hàng tại Siena và Lucca, Milan và Genoa đều thu lợi từ những thương vụ mới này. Nhưng xứ Florence mới thực sự chiếm phần lớn nhất. Hệ thống ngân hàng Florence thống lĩnh hệ thống tài chính quốc tế nhờ đồng tiền vàng florin nổi tiếng. Được đúc lần đầu tiên vào năm 1252, đồng florin nhanh chóng nhận được sự tín nhiệm và công nhận rộng rãi, thực sự trở thành đồng tiền mạnh (hard currency) vào thời đó.

Tới đầu thế kỷ 14, hai dòng họ Bardi và Peruzzi là những người giàu có nhất tại Florence nhờ vào việc cung cấp các dịch vụ tài chính. Họ tổ chức việc thu và chuyển tiền dựa trên các hệ thống phong kiến quyền lực nhất, đặc biệt là nhờ Đức Giáo hoàng. Hoạt động buôn bán và trao đổi hàng hóa trở nên thuận tiện với những hóa đơn trao đổi (bill of exchange) mà nhà Bardi và Peruzzi cấp cho các thương nhân. Khi xuất trình những hóa đơn này, thương nhân có thể nhận được tiền ở bất kỳ ngân hàng trong hệ thống. (Đây là hình thức tương đồng với việc sử dụng cheque ngày nay).

Các ngân hàng xứ Florence đảm bảo dịch vụ này nhờ số lượng chi nhánh ở khắp nước Italia và tại các trung tâm buôn bán lớn của châu Âu. Tới đầu thế kỷ 14, hệ thống ngân hàng Bardi đã hiện diện tại Barcelona, Seville và Majorca; Paris, Avignon, Nice và Marseilles; London, Bruges, Constantinople, Rhodes, Cyprus và Jerusalem.

Quyền lực của xứ Florence còn được củng có bởi những khoản nợ lớn mà các chủ ngân hàng ở đây đang nắm giữ. Con nợ, không ai xa lạ, chính là các vị Hoàng đế uy quyền bậc nhất châu Âu. Cũng chính vì lẽ đó, không lâu sau, các ngân hàng này rơi vào cảnh tồi tệ.

Năm 1340, vua Edward III của nước Anh thực hiện thương vụ cực kỳ tốn kém: cuộc chiến với nước Pháp, sự khởi đầu của một thế kỷ chiến tranh. Vị Hoàng đế vay rất nhiều tiền từ xứ Florence. Nhà Peruzzi cho vua Edward III vay 600.000 florin vàng còn nhà Bardi cung cấp khoản vay 900.000 florin vàng. Tới năm 1345, nhà vua vỡ nợ và cả hai dòng họ ngân hàng Florence cũng lâm vào cảnh phá sản.

Tuy vậy, vai trò trung tâm ngân hàng châu Âu của xứ Florence vẫn tiếp tục sau thảm họa này. Nửa thế kỷ sau, những gia tài lớn nhất lại được các gia tộc ngân hàng ở đây tạo dựng. Lần này hai dòng họ lừng danh của thế kỷ 15: Pazzi và Medici.

Đế chế Fugger: thế kỷ 15-16

Vào đầu thế kỷ 15, nhà Medici xứ Florence là đế chế ngân hàng lớn nhất châu Âu. Về sau, vì theo đuổi quyền lực chính trị, nhà Medici đã không tập trung cao nhất cho các hoạt động kinh doanh tạo ra tiền. Sau Lorenzo Vĩ đại, tình trạng tài chính của gia tộc ngày càng trở nên tồi tệ.

Một trong những cái tên được biết tới nhiều nhất trong thời kỳ đầu của lịch sử ngân hàng thế giới là dòng họ Medici ở xứ Florence. Xuất thân từ những người nông dân, rồi tham gia các hoạt động buôn bán và ngân hàng, dòng họ Medici dần trở thành một trong các gia đình quyền lực nhất châu Âu trong suốt thời gian từ giữa thế kỷ 14 đến 1748. Dưới sự dẫn dắt của Giovanni Medici từ đầu thế kỷ 15 và sau đó là Cosimo, dòng họ xứ Toscan (thuộc Italia) dần mở rộng các hoạt động ngân hàng ra ngoài ranh giới xứ Florence với các chi nhánh tại Milan, Geneva, Bruges, Ancona, Pisa, London và Avignon. Chi nhánh tại Rome quản lý tài khoản của Đức giáo hoàng.

Tại Florence, ngân hàng Medici nhận tiền gửi của những người Florence giàu có. Các khoản tiền gửi này có thể được rút ra theo định kỳ từ ba tháng đến một năm và hưởng mức lãi suất khoảng 10 phần trăm mỗi năm. Dòng họ Medici cũng dần quản lý xứ Florence, thể hiện sức mạnh kết hợp giữa tài chính và chính trị. Sự kết hợp này đã vô cùng hữu ích vào năm 1452 khi cả hai xứ Naples và Venice gây chiến với Florence. Đối mặt cùng lúc với hai mối hiểm hoạ, Cosimo đã cho đòi các khoản nợ tại hai thành phố thù địch khiến cho chiến tranh không thể nổ ra bởi hai thành phố này không còn đủ nguồn tài chính để thuê quân lính.

"Dòng họ Medici đạt tới đỉnh cao dưới thời Lorenzo (1449-1492), cháu trai của Cosimo. Lorenzo được coi là hình ảnh mẫu mực của một quý ông thời kỳ Phục Hưng. Ông là người trị vì xứ Florence, nhà thơ, học giả, một người say mê nghệ thuật, và một chủ ngân hàng. Danh tiếng này, tuy vậy, cũng có giá của nó. Dưới thời kỳ Lorenzo, dòng họ Medici đã cho vua nước Anh Edward IV vay tiền để tài trợ cho Cuộc chiến Hoa hồng (Wars of the Roses). Khi vị vua nước Anh không thể trả nợ, ngân hàng đã bị mất một số tiền lớn và buộc phải đóng cửa chi nhánh tại London. Dòng họ Medici cũng tham gia tích cực các hoạt động chính trị tại Nhà thờ Thiên chúa Giáo, và rất có uy tín với các thế lực ngầm. Dòng họ Medici luôn là những chủ ngân hàng đầy thủ đoạn, sẵn sàng tận dụng mọi cơ hội để loại bỏ đối thủ cạnh tranh.

Dòng họ Medici bắt đầu suy yếu từ thế kỷ 16 khi xứ Florence bị xâm lược nhiều lần. Vào thế kỷ 16, ngân hàng Medici thoát khỏi cảnh phá sản nhờ sự giúp đỡ của Fuggers, một ngân hàng lớn ở miền nam nước Đức. Đến thế kỷ 18, ngân hàng Medici chỉ còn là cái bóng mờ nhạt của chính mình. Nhưng tên tuổi của dòng họ Medici và ngân hàng Medici xứ Florence còn mãi trong lịch sử ngân hàng thế giới."

--Jane E. Hughes và Scott B. MacDonald, 2002. International Banking: Text and Cases.

Nhà Medici sau cùng cũng nhận được tước hiệu Công tước xứ Florence nhưng vị trí đứng đầu ngành ngân hàng đã lọt vào tay ngân hàng Đức- dòng họ Fugger. Cũng giống như nhà Medici, nhà Fugger tích lũy gia sản khổng lồ bằng việc chăm sóc tài chính cho Giáo hoàng và các hoàng tộc.

Quyền lực của châu Âu được chuyển về Habsburgs, nơi gia đình Fugger sinh sống, cuối thế kỷ 15. Tổ tiên nhà Fugger làm nghề dệt vải tại Augsburg và những tài sản đầu tiên của gia đình đều năm trong ngành dệt. Người vay tiền nhà Fugger đầu tiên là một hoàng tử Habsburgs vào năm 1487, với khoản đảm bảo là mỏ đồng và bạc ở vùng Tirol. Kể từ đó, gia tộc này mở rộng và phát triển các hoạt động khai mỏ và kim loại quý. Năm 1491, Maximilian, lúc này còn là hoàng tử của vương triều Roman Thần thánh, nhận khoản vay đầu tiên từ nhà Fugger và đảm bảo bằng các quyền lợi kinh tế thu được từ hai lãnh đại tại Áo. Sau khi lên ngôi hoàng đế ở Habsburgs, Maximilian vẫn tiếp tục phải vay tiền của gia tộc Fugger.

Người vay nhiều tiền nhất từ nhà Fugger là cháu nội của Maximilian, vua nước Đức Charles. Thừa hưởng từ cha ông ngai vàng của nước Đức và vương triều Roman nhưng để giữ tước vị, Charles phải cạnh tranh với Hoàng đế nước Pháp, Francis Đệ nhất. Để có tiền trang trải cho cuộc tranh cử, Charles tìm đến nhà Fugger. Một lượng tiền khổng lồ đã được sử dụng để hối lộ bảy người bỏ phiếu: 852.000 florin. Gần hai phần ba số tiền này do nhà Fugger tài trợ (544.000 florin). Chiến dịch vận động tranh cử thắng lợi. Charles V đăng quang.

Thời gian đó, mức lãi suất không bao giờ ở dưới 12%/năm. Và với một khoản vay nóng, nhà ngân hàng ở thế kỷ 16 dễ dàng nâng mức lãi suất lên 45%. Cung cấp dịch vụ ngân hàng cho các hoàng đế mang lại lợi nhuận.

Các cuộc chiến liên tiếp và những khoản chi tiêu của vương triều đều đặn làm suy kiệt tài chính của Hoàng đề Charles. Cũng giống như những người đang trị vì các quốc gia châu Âu vào thời kỳ đó, chi phí của Charles V vượt xa những nguồn lợi có thể thu được. Phần chênh lệch được bù đắp bằng các khoản vay ngân hàng và thường được hoàn trả bằng cách nhượng lại những nguồn thu lợi của hoàng gia.

Nhờ đó, nhà Fugger được trao toàn quyền hưởng số lợi tức từ Tây Ban Nha cùng các mỏ bạc và thủy ngân vào năm 1525. Nhà ngân hàng này, từ đó, giữ vị thế đồng thời là người thu lợi tức và người quản lý tài sản của vương triều. Nhưng mức lãi suất cao của họ có thể nhanh chóng phá tan một vương quốc đã tham giá quá nhiều cuộc chiến không mang lại lợi nhuận.

"Dòng họ Fugger. Fugger là một trong các dòng họ nổi tiếng nhất trong ngành ngân hàng tại Đức vào giữa thời kỳ Trung cổ. Cuối thế kỷ 15, dòng họ Fugger nổi lên như một gia đình buôn bán có thế lực tại thành phố Augsburg, và thường được nhắc tới như những người chủ ngân hàng chuyên phục vụ dòng họ Hapsburg. Năm 1487, Jakob Fugger (1459-1525) cho Sigismund- Hoàng tử xứ Tyrol- vay 20.000 duca (đồng tiền vàng cổ châu Âu). Để đảm bảo cho khoản vay, vị lãnh chúa dòng họ Hapsburg đã trao cho Jakob quyền kiểm soát các mỏ bạc tốt nhất vùng Schwarz và toàn bộ doanh thu thuế của tỉnh Tyrol. Thời kỳ đó, nhu cầu sử dụng bạc rất lớn nhằm phục vụ công việc chế tác các đồ trang sức tinh xảo. Bạc cũng là phương tiện thanh toán, trao đổi xếp thứ hai sau vàng. Quyền kiểm soát các nguồn lực này vừa mang lại nguồn lợi khổng lồ vừa củng cố sức mạnh tài chính của dòng họ Fugger.

Với một khoản vay khác cho Hoàng tử Sigismund năm 1488, dòng họ Fugger đã có quyền kiểm soát hoạt động khai thác bạc trên toàn bộ lãnh thổ. Khi kế tục Sigismund nắm quyền cai quản Tyrol, năm 1490, Maximilian tiếp tục duy trì mối quan hệ tín dụng này. Ngay sau đó, năm 1491, Maximilian có thêm một khoản vay mới từ dòng họ Fugger nhằm tài trợ cho cuộc chiến thống nhất các lãnh địa thuộc dòng họ Hapsburg. Maximilian trở thành Hoàng đế của Đế chế Roman (Holy Roman Empire) vào năm 1493. Gia đình Fugger có một người bạn đầy quyền lực và một khách hàng gắn bó.

Đến năm 1508, công việc kinh doanh của dòng họ Fugger đã trải khắp châu Âu với các hoạt động đầu tư trong lĩnh vực dệt may, buôn bán hạt tiêu, bất động sản, và khai thác mỏ bạc và đồng. Ngân hàng Fugger cũng tham gia tài trợ cho các cuộc viễn chinh tại châu Mỹ. Hệ thống kinh doanh quốc tế của gia đình Fugger cho phép họ cung cấp thêm một dịch vụ mới cho vương triều Hapsburg, khi đế chế này mở rộng và nằm rải rác ở nhiều vùng địa lý trên khắp lục địa châu Âu. Các lãnh địa chư hầu có nghĩa vụ nộp tiền cho vương triều Hapsburg. Họ thực hiện nghĩa vụ của mình bằng nhiều đồng tiền khác nhau và việc vận chuyển thường tốn rất nhiều thời gian và nguy hiểm. Kết quả là việc sử dụng hệ thống của gia đình Fugger sẽ vô cùng tiện lợi cho hoàng gia. Với các lệnh chuyển đổi, tiền sẽ được chuyển tới Augsburg chỉ trong vòng hai tuần. Có thể hình dung một cách đơn giản, đại diện của gia định Fugger tại Antwerp nhận tiền và phát hành một giấy ghi nhận tín dụng. Giấy chứng nhận này sẽ nhanh chóng được chuyển tới Đức và đổi thành tiền mặt tại ngân hàng Fugger ở Augsburg .

Gia tài của dòng họ Fugger, tuy vậy, cũng trở nên gắn bó vô cùng mật thiết với các hoạt động của khách hàng lớn nhất, vương triều Hapsburg. Dưới thời Charles V, người kế nghiệp Maximilian, chiến phí quá lớn trong các cuộc xung đột với người Ottoman, Pháp, và người Tin lành tại Đức đã đặt tình trạng tài chính của vương triều vào tình trạng căng thẳng đáng ngại. Mặc dù gia đình Fugger tin rằng họ đã gia hạn quá mức với vương triều Hapsburd, họ vẫn phải miễn cưỡng tiếp tục cung cấp các khoản tín dụng. Sức mạnh tài chính của dòng họ Fugger bị tổn hại nghiêm trọng khi Philip II của Tây Ban Nha tuyên bố phá sản vào năm 1577. Gia sản của dòng họ Fugger sụt giảm nghiêm trọng ngay sau đó."

--Jane E. Hughes và Scott B. MacDonald, 2002. International Banking: Text and Cases.

Tới cuối thế kỷ 16, dòng họ Fugger rút khỏi các hoạt động tài chính rủi ro, sau một số thảm họa gia đình, và duy trì hiện diện như một gia đình quí tộc sau khi bán đi phần lớn tài sản.

Từ đây xuất hiện những triều đại ngân hàng mới, trong đó nổi bật và quyền lực nhất là gia tộc Rothschild. Nhưng điểm đáng kể nhất của lịch sử ngân hàng thế kỷ 17 lại là mô hình kinh doanh với các dịch vụ thương mại hướng tới khách hàng thông thường nhiều hơn các vị hoàng đế.

Từ Antwerp đến Amsterdam

Antwerp trở thành trung tâm tài chính của châu Âu vào đầu thế kỷ 16. Vị trí trung tâm giao thương giữa vùng Baltic, Đại Tây Dương, và châu Á của Antwerp được khẳng định khi chuyến tầu đầu tiên của người Bồ Đào Nha dỡ các kiện hàng hạt tiêu và quế xuống bến cảng vào năm 1501. Quan trọng hơn, tại Antwerp có một trong hai thị trường chứng khoán duy nhất vào thế kỷ 16. Tại đây, vốn và các khoản tín dụng luôn sẵn sàng dành cho các thương gia có uy tín đang thiếu vốn nhằm đổi lại mức thu thuế đảm bảo cùng các cam kết trả nợ. Randall Germain ghi nhận về giai đoạn này như sau: "Sự phát triển của Antwerp, đặc biệt là thị trường chứng khoán tại đây, báo hiệu sự chuyển dịch cấu trúc tài chính công cộng, phản ánh sự bùng nổ cả khả năng cung cấp nguồn tài chính (đồng sovereign của Anh, vàng của Mỹ và doanh thu từ việc cấp phép độc quyền thương mại) và nhu cầu sử dụng các nguồn lực này.''

Antwerp đã thu hút các nhiều ngân hàng quốc tế. Các ngân hàng Đức, như Fugger hay Welser, đóng vai trò quan trọng tại đây, mặc dù các ngân hàng Italia cũng hiện diện. Trong phần lớn thế kỷ 16, Antwerp phát triển thịnh vượng với hàng hoá từ châu Á do người Bồ Đào Nha đổ xuống cảng biển tại đây, sau đó chuyển tới Đức, vùng Baltic, và Anh quốc. Theo chiều ngược lại, các đồng tiền bạc và đồng của Đức và Hungary chảy về Antwerp. Nhiều chuyến hàng lớn khởi hành từ đây với nguồn tài trợ là các khoản vay từ ngân hàng Fugger hay Welser. Thời hoàng kim của Antwerp trong lịch sử tài chính đi đến hồi kết vào thập kỷ 1580, khi cuộc chiến tôn giáo giữa những người Tin lành và những người Thiên chúa giáo nổ là tại Vùng đất trũng (ngày nay là khu vực Vương quốc Bỉ và Hà Lan). Thật không may, Antwerp đã tham gia vào cuộc chiến với cộng đồng người Tin lành thiểu số, những người phải gánh chịu cơn thịnh nộ của Philip II, người trị vì xứ Hapsburg (Tây Ban Nha) theo đạo Thiên chúa. Năm 1585, quân đội Tây Ban Nha tiến vào cướp phá Antwerp. Hậu quả nặng nề của sự kiện này là Antwerp đánh mất vai trò của mình trong hệ thống tài chính quốc tế.

Hoạt động ngân hàng trong thế kỷ 16 cũng không tránh khỏi rủi ro này. Trong khi nhiều ngân hàng lớn của Đức và Italia cho các vương triều châu Âu mượn tiền thì việc thu hồi các khoản nợ gặp rất nhiều khó khăn. Hỗ trợ cho bên chiến bại đồng nghĩa với việc người vay tiền sẽ bị xử tử và lãnh địa của họ bị tàn phá bởi các đạo quân vô cùng hung hãn. Cũng không kém phần nguy hiểm, ngay cả các hoàng gia lớn cũng có thể sử dụng quá mức nguồn lực tài chính của mình và thường dẫn tới kết cục vỡ nợ. Vua Philip II của Tây Ban Nha đã phải tuyên bố phá sản vào năm 1557. Hậu quả tại hại của sự kiện này là các ngân hàng lớn của Đức đều bị tổn thất nặng nề.

Khi Antwerp suy thoái là lúc Amsterdam nổi lên như trung tâm tài chính của thế giới. Trong thế kỷ 16, người Hà Lan thống lãnh việc vận tải thương mại tại khu vực Baltic và hoạt động rất tích cực tại các vùng lãnh thổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Cuộc chiến với Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ 16 mở ra cho người Hà Lan nhiều cơ hội thương mại quốc tế hơn. Đây là cơ hội để người Hà Lan nhanh chóng thành lập đế chế của riêng mình, và cuối cùng đã giành được quyền kiểm soát New Amsterdam (ngày nay là New York), các quần đảo châu Á mà ngày nay là Indonesia, hàng loạt hòn đảo tại vùng Caribbean và Suriname, và trong một thời gian ngắn là một phần Brazil và bờ biển phía đông châu Phi.

Người Hà Lan đã thực hiện các biến đổi sâu sắc trong tài chính vào đầu thế kỷ 17. Mặc dù an ninh quốc gia liên tục bị đe doạ bởi các hoàng tử Đức, Pháp, và Tây Ban Nha, nền độc lập của Hà Lan vào thế kỷ 17 được duy trì tương đối ổn định. Môi trường chính trị ổn định là điều kiện đầu tiên giúp hoạt động thương mại thăng hoa. Và do vậy, nhu cầu một hạ tầng tài chính phát triển hơn và phức tạp hơn xuất hiện. Năm 1602, người Hà Lan cho thành lập các khu chợ có tổ chức dành cho việc trao đổi các công cụ tài chính. Ngân hàng Ngoại tệ Amsterdam (Amsterdam Exchange Bank) được thành lập năm 1609. Sở giao dịch chứng khoán Amsterdam (Amsterdam Stock Exchange) mở cửa năm 1611. Để làm nền móng cho các phát triển trên, người Hà Lan đã phát triển một hệ thống ngân hàng vững mạnh, biến Hà Lan trở thành nỗi ghen tị với phần còn lại của châu Âu, đặc biệt là Anh quốc.

Người Hà Lan thống lĩnh hệ thống tài chính quốc tế trong suốt thế kỷ 17 với nguồn tài chính từ các quốc gia đang tìm hướng phát triển kinh tế qua các hải đội của mình như Anh và Pháp. Sự thống lĩnh của người Hà Lan về tài chính, tuy vậy, đã mở đường cho người Anh tiến lên vị thế này trong thế kỷ 19.

Ngân hàng và Séc/cheque: từ thế kỷ 16

Năm 1587, Banco della Piazza di Rialto mở cửa tại Venice với tư cách một sáng kiến của nhà nước. Mục tiêu của nó là cất giữ an toàn các khoản tiền của thương nhân và đảm bảo các giao dịch tài chính giữa Venice và đối tác ở bất kỳ đâu mà không thực hiện di chuyển vật lý của tiền đúc.

Quá trình khảo cứu tư liệu về lịch sử phát triển ngành ngân hàng thế giới ghi nhận các tài liệu đề cập tới dòng họ Goldsmid, ở một số tài liệu là Goldsmith. Mặc dù cách viết có khác nhau nhưng phỏng đoán rằng đây chỉ là một đối tượng duy nhất: những người làm nghề kim hoàn, đúc tiền vàng (loại tiền rất có giá trị vào thời Trung cổ). Với vị thế ngày một quan trọng của tiền vàng trong buôn bán và cất trữ, những người này giàu lên, có tích lũy. Việc sử dụng vốn của họ theo công nghệ kiếm lãi vay rất hợp tự nhiên và qui luật thị trường.

Còn sức mạnh quyền lực thông qua van tín dụng là do con người tạo nên với các kế hoạch thiết kế tinh vi, dày công chuẩn bị, điều phối cực tốt và thực thi hiệu quả từng lần. Đại gia tộc Rothschild đặc trưng cho những phẩm chất đó. Họ vươn lên trong sự tàn khốc của thị trường là điều ai cũng phải nghiêng mình kính nể.

Hình thức thanh toán không sử dụng tiền đúc đã từng được Hy Lạp cổ đại áp dụng nhưng khi đó, những cá nhân cho vay tiền đối diện với rủi ro vỡ nợ cao. Sáng kiến Venice, với chi phí và trách nhiệm thuộc về nhà nước, là nỗ lực cung cấp một phương tiện đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh rủi ro. Các trung tâm thương mại ở vùng Địa Trung Hải trong thời kỳ đó, đáng kể có Barcelona và Genoa, thậm chí còn đi trước Venice với mô hình này. Các thành phố cảng phía bắc cũng nhanh chóng học tập theo, Amsterdam năm 1609, Hamburg năm 1619 và Nuremberg năm 1621.

Với phương thức giao dịch mới này, cheque, tiếng Việt gọi là séc, ra đời. Một hóa đơn trao đổi, phương thức ban đầu của việc chuyển tiền không sử dụng tiền đúc, là hợp đồng giữa các bên cá nhân và một hoặc nhiều hơn người cho vay tiền. Séc là hóa đơn thanh toán giữa các ngân hàng. Việc thanh toán được thực hiện cho bất kỳ ai nắm giữ và xuất trình séc với một trong số các ngân hàng tham gia cam kết trên séc.

Việc sử dụng séc đơn giản và được chấp nhận rộng rãi từ cuối thế kỷ 17. Cùng thời gian đó, các ngân hàng nhận ra họ có một nguồn lợi lớn hơn việc xử lý thanh toán séc và chuyển tiền.

Tổng số tiền các khách hàng gửi tại ngân hàng là một số lớn, và chỉ một phần trong số đó thường xuyên nhận được yêu cầu rút ra của khách hàng. Một phần số tiền còn lại có thể sử dụng để cho vay, với một mức lãi suất và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Khi khách hàng nhận ra phần giá trị tiềm ẩn trong số tiền họ gửi tại ngân hàng, nhà ngân hàng chấp nhận trả cho khách hàng một mức lãi tương ứng với số tiền và thời gian gửi tiền trong ngân hàng. Lợi nhuận của ngân hàng khi này là phần chênh lệch giữa lãi suất phải trả cho khách hàng và lãi suất nhận được từ các con nợ.

Quá trình chuyển đổi từ các cá nhân cho vay tiền sang ngân hàng tư nhân diễn ra chậm rãi trong suốt thế kỷ 17 và 18. Tại nước Anh, những gia đình chuyên nghề kim hoàn bắt đầu nổi lên, nhờ sớm tham gia vào hoạt động giữ tiền trong thời kỳ phát triển đầu tiên của ngân hàng. Sau đó, những gia đình này bắt đầu cho vay tiền. Cuối cũng, sang thế kỷ 18, họ chuyển toàn bộ sang hoạt động ngân hàng thay cho công việc tạo tác truyền thống.

Với ngân hàng tư nhân là một phần cấu trúc của đời sống thương mại, trong giai đoạn tiếp theo, lịch sử phát triển ngân hàng ghi nhận sự ra đời của các ngân hàng quốc gia.

Ngân hàng quốc gia: thế kỷ 17 và 18

Venice, sau khi là thành phố đầu tiên lập ngân hàng cho việc giữ tiền và thanh toán bù trừ séc, cũng đi tiên phong trong việc cho phép một ngân hàng can dự vào tài chính chính phủ. Năm 1617, Banco Giro được thành lập để giải quyết các vấn đề mà Banco della Piazza di Rialto để lại sau khi thực hiện những khoản cho vay không đảm bảo.

Con nợ của ngân hàng chính là nhà nước Venice. Banco Giro ra đời trên nguyên tắc những chủ nợ của chính phủ chấp nhận nợ được thanh toán dưới dạng tín dụng với ngân hàng mới. Để giải quyết một vấn đề trước mắt, những cơ hội mới được tạo ra. Venice đã có một cơ chế tạo nguồn quỹ tài chính công trên cơ sở các khoản tín dụng được đảm bảo.

Mở rộng khái niệm này theo lô-gic đưa tới khái niệm ngân hàng quốc gia, được thành lập dưới dạng các liên kết với chính phủ. Ngân hàng quốc gia đầu tiên ra đời là Ngân hàng Thụy Điển (Bank of Sweden), thành lập năm 1668. Cho tới nay ngân hàng này vẫn hoạt động và thường được nhắc tới với tư cá